Gói phục hồi qua chia sẻ của 3 “tư lệnh” ngành kế hoạch – đầu tư, tài chính và ngân hàng là đủ lớn để nền kinh tế lấy lại đà tăng trưởng sau dịch Covid-19.
Chương trình phục hồi kinh tế của Việt Nam sẽ có quy mô bao nhiêu tiền, ai sẽ được thụ hưởng, liệu có nguy cơ làm tăng nợ công và bội chi ngân sách hay không… là điều mà hàng trăm nghìn doanh nghiệp và hàng triệu người dân quan tâm.
Trong phiên chất vấn và trả lời chất vấn của Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, chương trình phục hồi kinh tế dần được định hình về thời gian ban hành và mục tiêu nhắm đến.
Trong phần giải trình thêm của Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, quy mô của chương trình phục hồi cũng như việc huy động nguồn lực cũng đã được hé lộ phần nào.
Sẽ cung tiền vào nền kinh tế linh hoạt
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết chương trình phục hồi kinh tế dự kiến kéo dài trong 2 năm 2022 và 2023. Các cơ quan của Chính phủ và Quốc hội đang phối hợp để hoàn thiện dự thảo chương trình, trình các cấp có thẩm quyền.
Sau đó, có thể ngay tháng 12 tới, Quốc hội sẽ họp một kỳ bất thường, xem xét một số nội dung quan trọng, trong đó có quyết định thông qua chương trình phục hồi kinh tế. Nếu được Quốc hội thông qua, chương trình sẽ được triển khai ngay từ tháng 1/2022.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng gói phục hồi kinh tế phải mạnh dạn, đủ lớn. Ảnh: Trung tâm báo chí Văn phòng Quốc hội. |
Về quan điểm xây dựng, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết chương trình phải mạnh dạn hơn để phối hợp giữa phát triển kinh tế và phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.
Chương trình sẽ giúp tăng quy mô GDP của nền kinh tế và tăng thu ngân sách, tạo nhiều việc làm cho xã hội nhưng vẫn đảm bảo được an toàn về nợ công và bội chi ngân sách.
Vấn đề quan trọng nhất là phải theo dõi chặt chẽ diễn biến về giá cả, nợ xấu… Chính phủ sẽ phải điều chỉnh, điều hành linh hoạt việc cung tiền để giảm áp lực lạm phát, đồng thời bảo đảm nguồn cung nguyên liệu, hàng hóa thiết yếu.
Chính phủ cũng đầu tư vào các công trình trọng tâm, trọng điểm, mang tính lan tỏa cao cho nền kinh tế. Chính phủ cần đảm bảo hiệu quả và mang tính dẫn dắt để kích hoạt nguồn vốn ngoài Nhà nước để cùng tham gia với tư nhân.
Chính phủ cũng đầu tư vào các công trình trọng tâm, trọng điểm, mang tính lan tỏa cao cho nền kinh tế, đảm bảo hiệu quả và mang tính dẫn dắt để kích hoạt nguồn vốn ngoài Nhà nước cùng tham gia với tư nhân
Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng
Ông Dũng nhấn mạnh các chính sách ban hành theo chương trình phục hồi phải có tác động kịp thời để hỗ trợ nền kinh tế. Chính phủ cũng cần tính đến vấn đề dài hạn như xuất khẩu, tiêu dùng nội địa. Các chính sách và giải pháp phải gắn với cơ chế thực hiện một cách cụ thể để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả.
Mục tiêu Chính phủ hướng đến là đảm bảo tăng trưởng của giai đoạn 2021-2025 khoảng 6,5-7%.
Theo Bộ trưởng, với gói hỗ trợ sắp ban hành, Chính phủ sẽ phải rút kinh nghiệm của gói kích thích kinh tế năm 2008-2009. Khi đó, Việt Nam tập trung chủ yếu vào thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, kích cầu đầu tư tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội. Quy mô khi đó khoảng 122.000 tỷ đồng, tương đương 6,9 tỷ USD.
“Các chính sách khi đó mới chủ yếu tập trung về phía cung. Doanh nghiệp rất khó khăn về đầu ra. Chúng ta không hỗ trợ để cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận được các đầu ra. Sản xuất xong không biết bán đâu”, ông nói.
Ngoài ra, chính sách hỗ trợ lãi suất lớn trong những năm 2008-2009 thiếu đồng bộ với các chính sách tiền tệ và tài khóa, do đó làm giảm hiệu quả.
Điều đó cũng dẫn đến trục lợi chính sách, có nghĩa là vay từ nguồn vốn rẻ này rồi gửi ngân hàng khác để hưởng chênh lệch. Vốn lại không chảy vào sản xuất mà lại chảy vào chứng khoán và bất động sản.
Ngân sách có thể chi ra gần 10 tỷ USD
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng không tiết lộ về quy mô thực sự của chương trình phục hồi kinh tế. Ông nhấn mạnh đang bàn luận và xin ý kiến các cơ quan có thẩm quyền về vấn đề này.
Tuy vậy, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc đã phần nào chia sẻ về quy mô và nguồn lực của gói hỗ trợ. Ông cũng chia sẻ quan điểm liệu có tăng trần nợ công để tạo dư địa cho chính sách phục hồi hay không.
Theo Bộ trưởng Tài chính, nếu tính theo GDP cũ thì năm 2021, nợ công là 56,8%, vẫn dưới 60% nhưng đã vượt ngưỡng cảnh báo 55%. Theo ông, đây là một vấn đề phải cân nhắc.
Thứ hai, dư nợ Chính phủ là 51,5% nếu tính theo GDP cũ, còn GDP mới (GDP đánh giá lại) là 40,5% và dư nợ là 44,7%. Dư nợ của năm 2021, nợ công khoảng 3.750.000 tỷ đồng và nợ Chính phủ khoảng 3.397.000 tỷ đồng.
Dự kiến Chính phủ sẽ cấp bù lãi suất để huy động khoảng 1 triệu tỷ đồng vốn giá rẻ đưa vào nền kinh tế. Ảnh: Hoàng Hà. |
“Chúng tôi cũng ủng hộ các gói kích cầu để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các gói kích cầu này phải có hiệu quả để tăng thu ngân sách và đồng thời giữ được bội chi ngân sách. Tăng bội chi ngân sách trong năm 2022 và 2023 nhưng sẽ giảm bội chi ngân sách các năm tiếp theo”, ông nói.
Về những hình thức hỗ trợ của gói phục hồi kinh tế, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc nói đến việc cấp bù lãi suất để tung vốn giá rẻ ra nền kinh tế. Theo đó, mỗi năm ngân sách sẽ bỏ ra khoảng 20.000 tỷ đồng, tức là năm 2022-2023 là 40.000 tỷ để cấp bù lãi suất, hỗ trợ cho doanh nghiệp khoảng 4%.
Như vậy, trong 2 năm, Chính phủ có thể huy động được khoảng 1 triệu tỷ đồng đổ vào nền kinh tế, không làm tăng bội chi, không làm tăng nợ công.
Một số gói nữa được Bộ Tài chính tính toán là phát hành trái phiếu Chính phủ hoặc công trái hoặc trái phiếu bằng ngoại tệ để huy động tiền trong dân. Gói này dự kiến huy động khoảng 180.000 tỷ đồng, mỗi năm cũng chỉ tăng bội chi ngân sách 1%.
Với 2 gói trên, bước đầu Chính phủ đang cân nhắc đưa vào nền kinh tế khoảng 220.000 tỷ đồng (khoảng gần 10 tỷ USD) trong 2 năm tới.
Nền kinh tế có hấp thụ được tiền?
Trong khi đó, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng trả lời câu hỏi liệu còn dư địa để giảm lãi suất tiếp, giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn chi phí hợp lý và phục hồi kinh tế hay không. Theo bà, một trong những tính toán để có thể tiếp tục giảm lãi suất chính là tính đến các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
“Tuy nhiên, trong năm 2022 rủi ro lạm phát là rất là lớn”, Thống đốc nói.
Theo bà Hồng, khi kinh tế thế giới phục hồi, giá một số mặt hàng tăng vọt, ví dụ giá xăng dầu trong tháng 9 tăng 55,2% so với cuối năm trước. Ở các nước phát triển, lạm phát đã tăng lên ở mức cao nhất trong lịch sử, với Mỹ đã tăng 5,3% trong tháng 9 vừa qua.
Trong khi đó, kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, chịu rủi ro lạm phát nhập khẩu. Bà cũng nhấn mạnh các ngân hàng trung ương trên thế giới đang dừng việc nới lỏng chính sách tiền tệ và có tới 65 lượt tăng lãi suất trên thế giới.
Áp lực lạm phát cũng như áp lực đối với điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới rất lớn
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng
“Có thể nói áp lực lạm phát cũng như áp lực điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới sẽ rất lớn”, Thống đốc chia sẻ.
Trong khi đó, một điều đáng lo ngại là nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đang gia tăng. Trong thời gian qua, các ngân hàng giảm lãi suất bằng nguồn lực tài chính của mình chứ không phải là tiền từ ngân sách.
Khi nợ xấu gia tăng, các tổ chức tín dụng sẽ phải dùng nguồn lực tài chính bản thân để xử lý. Bà Hồng cho rằng nếu tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng bị suy giảm, khả năng chi trả và an toàn của hệ thống sẽ bị ảnh hưởng.
Trong khi đó, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc băn khoăn việc liệu nền kinh tế có hấp thụ được tiền không khi Chính phủ tung ra các chương trình hỗ trợ. Ông cho rằng chỉ đưa được tiền vào nền kinh tế với các dự án đầu tư công để dẫn dắt đầu tư. Các dự án và công trình trọng điểm sẽ tạo đột phá để thúc đẩy tăng trưởng.
Bộ trưởng Hồ Đức Phớc mong muốn nền kinh tế phải cải thiện khả năng hấp thụ vốn. Ảnh: Hoàng Hà. |
“Phải lập dự án trong điều kiện đặc biệt thì mới tiêu được tiền bằng các gói kích cầu và thực hiện đồng bộ chính sách tài khóa và tiền tệ”, ông Phớc nói.
“Ví như vay để làm nhà ở xã hội hay vay các vấn đề mang tính chất hỗ trợ thì chúng ta tập trung vào Ngân hàng Chính sách xã hội; còn vay để các doanh nghiệp tập trung phát triển thì thông qua các kênh của ngân hàng thương mại và các kênh huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đó là công cụ về nợ”, ông nhấn mạnh.
Thứ ba là công cụ về chi ngân sách. Theo ông Phớc, với công cụ chi ngân sách, Chính phủ tiết kiệm cả chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. “Chi đầu tư phát triển cũng phải đặt vấn đề rằng đã đầu tư phát triển là phải có hiệu quả, nếu không phải sắp xếp lại, phải lấy nguồn vốn của dự án này để đưa vào dự án khác hiệu quả hơn”, ông nói.
“Về chi đầu tư, giảm 10% chi thường xuyên. Trong dự toán phân bổ ngân sách, chúng tôi đã cắt giảm 10% so với định mức Thường vụ Quốc hội ban hành. Trong quá trình điều hành sẽ tiếp tục cắt giảm khoảng 10% nữa và tiết kiệm 5% chi tiếp khách, công tác phí trong nước và ngoài nước. Như vậy, sẽ tiết kiệm một số khoản chi để tập trung vào vấn đề đầu tư và vấn đề chống dịch”, ông Phớc khẳng định.